Ánh Sáng Tháng Tư
Tháng Tư vì thế là tháng vô cùng trọng
đại của những người con Phật. Nhiều mùa hạ đi qua trong đời Thế
Tôn và chúng Tăng, để lại những dấu ấn khó phai. Đó là công đức giáo
hóa của Như Lai, là niềm vui tinh khiết, niềm khinh
an lớn nhất của chư Tăng từ sự ứng dụng giáo
pháp Phật dạy. Vâng lời Như Lai, tất cả chư Thánh đệ
tử ở yên một chỗ trong ba tháng mùa mưa, nỗ lực thiền định, thành
tựu Thánh quả, cứu mình cứu người ra khỏi trầm luân sanh tử.
Tháng Tư trở thành tháng của ánh sáng giác ngộ, tháng của những mùa
hạ ngạt ngào hương sen vươn lên từ đất bùn hôi tanh.
Năm ấy, mùa hạ thứ 9, Đức Phật cùng chư
Tăng đi đến Kosambi, an cư tại tinh xá Ghositārāma.
Māgandiyā vốn chờ đợi Thế Tôn ở đây từ trước. Bà hận Phật. Bởi vì Thế
Tôn đã nói lên một sự thật, tuyệt sắc giai nhân cũng chỉ là
đãy da hôi thối. Thứ hậu cho mướn côn đồ mắng chửi Đức Phật khi
Ngài vào thành khất thực. Thế Tôn vui vẻ im lặng và
bảy ngày sau mọi chuyện đều qua đi. Hùng lực của vô thinh đã khiến cho mọi âm
thinh tan biến vào hư không. Diệu lực của từ tâm đã
giúp cho những con người cùng khổ nhận ra được đâu là chốn
nương về. Bằng tình thương, Thế Tôn đã hóa giải
hận thù, đem niềm vui đến cho mọi người, dù người có biết hay
không.
Đức Phật tu tập thành tựu được nhất
thiết trí, bỏ hết gánh nặng, bỏ cả lời khen tiếng chê. Phật mà
còn bị miệng đời thị phi, huống là chúng ta? Cho nên đừng mong muốn quá
phước lượng của mình. Chúng tam uốn nhẹ thì phải bỏ hết gánh nặng.
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô
minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái, thành
thuyền pháp, đánh trống pháp, dựng cờ pháp. Muốn thành thuyền pháp, đánh trống
pháp là phải nhổ tên tà và đoạn dứt khát ái. Bởi vì chính ái
dục là nguyên nhân dẫn chúng sanh đi trong luân
hồi sanh tử, do đó Phật bảo người xuất gia giữ
giới trọng nhất là giới dục. Hàng cư sĩ tại gia có thể thư
thả qua lại trong ba đường lành, đừng đi ba đường dữ, còn người xuất
gia nhất định phải dứt khát ái.
Chữ “ái” trong nhà Phật gồm luôn cả hai
nghĩa thương và ghét. Lục Tổ nói: “Tắng ái bất quan hoài, trường
thân lưỡng cước ngọa”, nghĩa là “Thương ghét đừng để lòng, duỗi thẳng hai chân
ngủ”. Chúng ta muốn khỏe thì đừng để lòng chuyện thương ghét, được
mất, hơn thua. Biết khổ, muốn ra mà chưa ra nổi còn có thể tha thứ, biết
khổ mà vẫn không chịu ra mới là kỳ! Cho nên ngài Triệu Châu nói chúng
sanh “biết mà cố phạm”. Nghiệp lực chúng ta mạnh quá cho
nên không đủ sức thắng. Biết đối đãi là nguyên
nhân dẫn chúng sanh đi trong luân hồi sanh tử nhưng
lúc nào chúng ta cũng sống trong đối đãi. Nên nói chúng
sanh không ngăn lấp đường tà, không mở đường chánh, còn Đức
Phật và các vị Bồ-tát thắng được nghiệp lực, làm chủ thân tâm, tự
do tự tại nên lìa các nghiệp ác, thành tựu vô lượng phước
đức.
Đức Thế Tôn suốt 49 ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề,
đêm cuối cùng là lúc quyết định. Thời gian ấy so với một
đời người thật là ngắn. Thế mà Thế Tôn đã hoàn thành đại
nguyện viên mãn, thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thật
ra không phải Đức Phật chỉ tu một đời này, mà đã nhiều đời
nên bây giờ mới đạt đạo quả nhanh chóng như vậy. Có thể chúng
ta cũng đã tu nhiều đời, tuy nhiên mình tu không nghiêm túc như Đức
Phật. Một quãng nào đó bỏ tu đi chơi, quậy phá người ta nên bây giờ bị quậy phá
lại. Tuy nhiên sự rong chơi nào cũng chỉ tạm thời thôi, rồi
ta cũng trở về nhà, trở về nguyên bản gốc của mình. Gốc của
mình là gốc Phật. Cho nên chúng ta hãy tự vui lên, tự quyết
định đời mình. Mê là chúng sanh, ngộ là Phật.
Trong kinh Pháp hoa, phẩm Đề Bà Đạt Đa có giai
thoại Long nữ dâng châu thành Phật như thế này: Ngài Xá
Lợi Phất không tin Long nữ có khả năng thành Phật, vì Long
nữ là rồng cái. Rồng thuộc về súc sanh và nữ giới có
năm điều chướng: Một chẳng được làm Phạm Thiên vương, hai chẳng được làm Đế
Thích, ba chẳng được làm Ma vương, bốn chẳng được làm Chuyển luân
Thánh vương, năm chẳng được làm Phật. Thế mà Long nữ lại tuyên
bố với Xá Lợi Phất tôi có thể thành Phật và thành
Phật rất mau nữa là khác. Khi Long nữ dâng hạt châu lên Đức
Phật, Đức Phật nhận hạt châu. Long nữ hỏi Xá Lợi
Phất rằng:
- Tôi hiến châu báu, Đức Thế Tôn nạp thọ,
việc đó có mau chăng?
Đáp:
- Rất mau.
Long nữ nói:
- Lấy sức thần của các Ngài xem, tôi thành
Phật lại mau hơn việc đó.
Nói xong, Long nữ chuyển nữ thành nam, liền bay
qua nước Vô Cấu ở phương Nam, ngồi tòa sen báu thành bậc Đẳng
Chánh Giác.
Có khi nào chuyện Long nữ thành Phật không phải
chờ bay qua nước Vô Cấu, vì như vậy cũng mất một vòng, chưa thể gọi là
“rất mau”. Lúc dâng hạt châu Phật nhận, ngay khi đó đã xong hết rồi. Có thể vì
giải nghi cho Tôn giả Xá Lợi Phất trên tướng nam nữ không
thể thành Phật, nên buộc lòng Long nữ phải bay qua nước Vô
Cấu chuyển thân nam thành Phật. Một vòng như vậy cũng là phương
tiện mà thôi. Đi một vòng để thấy được diệu dụng của một chúng
sanh khi đã thành tựu Vô thượng Bồ-đề, trong sạch làu
làu, không chút bợn nhơ (vô cấu). Bấy giờ muốn hiện nam thì hiện nam, cần hiện
nữ thì hiện nữ, chứ việc thành Phật đâu có tướng nam nữ.
Chuyện ấy chẳng lẽ bậc đại trí như Tôn giả
Xá Lợi Phất không biết sao? Không phải. Tôn giả thị hiện vấn
nạn như thế để răn nhắc những chúng sanh nghiệp chướng còn
nhiều phải thận trọng, nhất là trong công phu tu hành. Người nữ nếu
không khéo tu thì sẽ bị chính nghiệp chướng của mình làm trở ngại con
đườngtiến đạo. Công phu chưa tới nơi mà lòng đã tự mãn
tự đại là một điều tối kỵ đối với hành giả tu Phật. Kẹt ở nạn
này thì khó thành tựu được giác ngộ giải thoát. Vì vậy thánh
nhân thường đưa ra những lý do khiến người nữ khó thành
Phật, để giúp nữ nhân bỏ đi những tập khí nhỏ nhen chấp
chặt của mình, mở rộng tâm lượng trượng phu. Tâm lượng trượng
phu không phải là của nam hay nữ, mà là tâm lượng rộng lớn.
Nhưng vì người nữ thường hay mang tâm lượng ích kỷ hẹp
hòi nên các ngài phá tâm ấy.
Khả năng giác ngộ của chúng sanh bình
đẳng, nhưng vì nghiệp lực sai biệt nên kết quả cũng sai
biệt. Do đó Phật đưa ra nhiều pháp môn tu tập, tùy căn
cơ mà chúng sanh chọn pháp tu thích hợp để đạt
được kết quả tốt đẹp nhất. Song dù tu bất cứ pháp
môn nào, đạo Phật cũng lấy trí tuệ làm gốc. Bởi vì nó
là thứ vũ khí sắc bén nhất. Tuy nhiên kiếm dù bén đến đâu mà không
chịu dùng, không bao giờ cầm tới thì có khác gì thanh thép lụt. Gươm trí
tuệ cầm rồi cũng không chịu chém thì chặt đứt được cái gì? Học pháp, hiểu
pháp mà không ứng dụng pháp vào trong cuộc sống thì học để làm chi?
Cho nên bắt buộc người tu phải thường xuyên dùng trí tuệ
quán chiếu.
Nhờ trí tuệ mà ta buông tất cả để được an
lạc. Trí tuệ chiếu soi tới đâu, bóng tối si mê tan tới đó.
Có siêng năng dùng trí tuệ quán chiếu thì phiền não nghiệp
chướng mới lui tan. Nếu chúng ta không siêng, tuy học pháp, hiểu
Phật, nhưng năng lực công phu không có. Gặp cảnh chạy
theo cảnh quên tâm, như vậy hiểu mà không có lợi ích, không thể gọi
là người trí tuệ. Phật dạy không buông lung, tức là siêng năng tỉnh
giác. Nếu thường tỉnh là rút ngắn thời gian trôi giạt trong sanh
tử. Ngay khi không phiền não, tâm bình an như nhiên, thấy được
vậy là thấy Phật.
Và như thế những tháng Tư đi qua cuộc đời Phật lịch
sử là những tháng Tư đi qua cuộc đời của chúng ta. Ánh sáng
tỏa chiếu chan hòa, cả trần gian là tòa Kim cương báu, cung đón vô
lượng vô lượng đấng Như Lai cùng nhau xuống trần.
Hạnh Chiếu
0 comments