Ý NGHĨA ĐỀ KINH KIM CANG
Thích Tuệ Sỹ
Kinh Kim Cang là một trong những bản
kinh quan trọng và sớm nhất trong kinh điển Phật Giáo Đại Thừa. Ở đây,
chúng ta sẽ trình bày ý nghĩa của đề kinh Kim Cang từ nguyên gốc tiếng
Phạn và từ được dịch sang tiếng Hán. Đề kinh Kim Cang gồm hai phần. Tên
tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ
phẩm định cho từ theo sau. Prajñāpāramitā phiên âm tiếng Hán là Bát-nhã
Ba-la-mật-đa, nó có khả năng cắt chém như kim cang, hay chính xác: như
sấm sét (búa thiên lôi).
Hiện nay có hai bản dịch phổ biến: một
là Kim Cang Bát-nhã ba-la-mật do ngài La-thập dịch sang Hán; hai là Kim
Cang Năng Đoạn Bát-nhã ba-la-mật đa của ngài Huyền Trang dịch. Trong đề
kinh của ngài La-thập, từ chedika: (sự) cắt chém, bị lược bỏ. Theo đây
có thể hiểu, cắt chém là công dụng của kim cang, không cần đến phẩm định
từ, như dao để cắt, chỉ cần nói dao là đủ. Tuy nhiên, trong một ý nghĩa
khác, sự cắt chém của kim cang cần được lưu ý; và sự lưu ý này sẽ được
đề cập sau.
Trước hết, chúng ta giải thích ý nghĩa
của từ prañāpāramitā tức Bát-nhã ba-la-mật-đa. Từ Bát-nhã ba-la-mật-đa
được hiểu theo hai phương diện, phương diện tư tưởng và phương diện văn
học.
Về phương diện văn học, đó là hệ thống
kinh điển được phát triển sau khi Phật nhập Niết-bàn. Có thể bắt đầu từ
những phiến đoạn kệ tụng, như Bảo Đức Tạng Bát-nhã (Ratnaguṇa), vốn là
thể thơ tiện lợi cho việc truyền khẩu từ thầy sang trò, phát triển dần
theo thời gian và địa lý cho đến khi thành một bộ phận văn học rất đồ
sộ. Bộ lớn nhất, dài nhất, trước hết phải kể là Bách Thiên Tụng
(Śatasāhasrikā), kế đến là bộ 25.000 bài tụng: Nhị Vạn Ngũ Thiên Tụng
(Pañcaviṃśatikā), rồi bộ Bát Thiên Tụng (Aṣṭasāhasrikā). Đó là ba bộ
chính đồ sộ, tập hợp thành một đại tòng thơ, trong đó ngài Huyền Trang
dịch Hán gồm 600 quyển, hình thành bộ Bát-nhã đồ sộ nhất trong văn học
Phật Giáo.
Trong nền văn học Đại Thừa, khi nói đến
Bát-nhã ba-la-mật-đa là nói đến bộ tòng thơ vĩ đại này. Với kích thước
dài tương đương 600 quyển bản Hán, vì quá dài, nên nhu cầu khi truyền
tụng cần phải ngắn gọn lại cho phù hợp dung lượng của ký ức, và cũng cần
có hệ thống cô đọng cho vừa tầm bắt nắm của tư tưởng. Chúng ta có,
chẳng hạn như Văn-thù Bát-nhã gồm 700 tụng (Saptaśatikā:
Mañjuśrīparivartā), đến Kim Cang chỉ còn 300 tụng (Triṃśatikā), rồi đến
Tâm Kinh (Hṛdayasūtra) thì ngắn gọn vô cùng.
Nội dung giáo nghĩa được phô diễn rõ
ràng trong kinh Kim Cang. Ở đây, chúng ta tóm tắt đại ý của Tâm Kinh để
có khái niệm cơ bản về ý nghĩa thực tiễn của Bát-nhã Ba-la-mật. Tâm
Kinh, như được giới thiệu bởi chính kinh văn, tiếng Phạn gọi là mantra,
nghĩa đen là “công cụ tư duy”, Hán dịch thông dụng là “thần chú”.
Bát-nhã Ba-la-mật cũng được gọi là mahāvidyā: nền minh triết phổ quát,
bao trùm tất cả, được cô đọng và hàm chứa trong đây; mà Hán dịch là “đại
minh chú.” Theo ý nghĩa này, kinh văn chỉ nêu ra hàng loạt phủ định, và
kết thúc bằng câu gate gate paragate parasaṅgate bodhi svāha. Ngữ điệu
của câu thần chú này chính là công cụ hướng dẫn tư duy vượt qua những bế
tắc tư tưởng, mà đó cũng chính là những bế tắc trong đời sống thường
nhật, và nhờ đó mà vượt qua những tai họa hiểm nghèo.
Nay nói qua về tư tưởng Bát-nhã. Bát-nhã
hay prajñā, là trí tuệ, là nhận thức phán đoán các giá trị, theo các
cấp từ thường nghiệm cho đến siêu nghiệm. Bình tĩnh và sáng suốt, đó là
Định và Tuệ trong nhận thức thường nghiệm. Trong Phật học, đó là phần
thứ ba của quá trình tu tập hay phát triển; chúng ta có Giới-Định-Tuệ.
Nhận thức đạt được do quá trình phát triển Giới và Định là năng lực rọi
sáng bản chất của tồn tại. Như Tâm Kinh nói: “Chiếu kiến năm uẩn đều
không, vượt qua mọi ách nạn.” Trong các loại Định, để hỗ trợ cho trí tuệ
soi thấu bản chất chân thực của tồn tại, xóa tan bức màn vô minh, đập
vỡ lớp vỏ tự ngã, Định này được gọi là Kim Cang Dụ Định
(vajropama-samādhi), vì kiên cố như kim cang, hay khả năng cắt chém như
uy lực của sấm sét.
Ba-la-mật-đa, tiếng Phạn pāramitā, Hán
dịch là đáo bỉ ngạn: đến bờ bên kia; hoặc cũng dịch là chí cực, nghĩa
là, hoàn hảo hay toàn thiện tuyệt đối. Tại sao là hoàn hảo? Có hai
nghĩa: Thứ nhất là sự đạt đến mức toàn thiện. Theo nghĩa này, Hán dịch
là đáo bỉ ngạn, qua đến bờ bên kia, là bờ giải thoát sanh tử, bằng trí
tuệ bát-nhã. Nghĩa thứ hai là sự hoàn hảo của trí tuệ bát-nhã, tức là
đạt đến nhận thức chân thật tuyệt đối. Đó là sự hợp nhất hoàn hảo của Bi
và Trí.
Kinh Kim Cang thuộc về văn học Bát-nhã,
trong kinh điển Đại Thừa, giáo nghĩa của kinh được giảng cho các hàng
Bồ-tát. Không giống các kinh điển Đại Thừa khác, vị chủ giảng phần nhiều
là các Bồ-tát thuộc hàng Pháp Thân Đại Sĩ; trong các kinh điển thuộc
văn học Bát-nhã sơ kỳ, giáo nghĩa trong đây được diễn giải bởi các Thanh
Văn, các Đại Đệ Tử, cho các hàng Bồ-tát, bao gồm loài người và loài
trời. Điều này rất có ý nghĩa, theo đó kinh điển Bát-nhã chứa đựng các
giáo nghĩa mở rộng cho hàng đệ tử tại gia.
Văn học Bát-nhã là một phần của nền văn
học nguyên thủy hơn, đó là văn học Jātaka mà nội dung chuyển tải sự thực
hành các Ba-la-mật của Bồ-tát. Đó là những câu chuyện tiền thân của đức
Phật, trong nhiều kiếp do chứng kiến những thống khổ của chúng sanh mà
phát Bồ-đề tâm, hành Bồ-tát đạo.
Từ sau Phật nhập Niết-bàn khoảng 100 năm
trở đi, giáo pháp của ngài được truyền bá rộng rãi vào quần chúng trong
một giai đoạn mà người dân thích nghe đạo được kể bằng câu chuyện. Các
vị Tỳ-kheo hoằng pháp đã khéo léo đưa nội dung giáo lý vốn cao siêu vào
trong những sinh hoạt thường nhật, tập thành những mẫu chuyện Jātaka,
tiền thân của đức Phật, một nhân cách tuyệt vời với những phẩm tính cao
thượng như từ bi, trí tuệ, kham nhẫn, tinh tấn; luôn luôn sống và hành
động vì an lạc của mọi loài chúng sinh.
Những phẩm tính ấy là những thiện căn
công đức được tích lũy nhiều đời nhiều kiếp để cứu cánh thành tựu chánh
giác. Trong truyền thống phương Bắc, các phẩm tính ấy là sáu Ba-la-mật.
Trong truyền thống phương Nam, trong kinh tạng Pāli, các phẩm tính ấy là
mười Ba-la-mật.
Tuy cả hai truyền thống đều bắt đầu bằng
Bố thí Ba-la-mật (P. dāna-pāramī), nhưng Phật Giáo phương Nam thiên
trọng về xuất ly hay xuất gia (P. nekkhamma-pāramī); trong khi truyền
thống phương Bắc lấy Bố thí Ba-la-mật làm nền tảng từ đó phát triển lên
thành các Ba-la-mật khác. Trong các truyện tiền thân Bắc truyền, Bồ-tát
luôn luôn hiện thân làm cư sỹ tại gia. Hành bố thí là phước nghiệp sự
của người tại gia được đức Phật giảng dạy nhiều nơi trong các kinh điển
A-hàm hay Nikāya. Mặc dù trong hệ kinh điển này đức Phật cũng kể nhiều
chuyện tiền thân của chính ngài, đã nhiều lần xuất gia tu đạo, nhưng sự
hành đạo khi ấy chưa đạt đến cứu cánh. Bố thí là một phần trong pháp môn
Lục Niệm được dạy cho Phật Tử tại gia. Người xuất gia không được phép
có tư hữu, vì vậy không có phương tiện để hành bố thí như người tại gia.
Vả lại, trong giáo nghĩa sơ kỳ, việc bố
thí chỉ mang lại phước cho đời sau chứ không giúp cho việc giải thoát
sinh tử. Tuy nhiên, theo Đại Thừa, chính bố thí dẫn đến giải thoát và có
thể đến Đại Bồ-đề.
Từ truyện kể về tiền thân của đức Phật,
qua đó để thành tựu Phật quả cần phải thành tựu sáu Ba-la-mật, văn học
Jātaka được mở rộng đã trở thành nội dung thực tiễn của giáo nghĩa
Bát-nhã. Nhưng làm thế nào để thành tựu Bát-nhã nầy? Sự diễn giải đã kéo
dài với dung lượng tương đương 600 quyển Hán, năm nầy tháng kia, thời
nầy sang thời khác, dần dà được thu ngắn lại cho gọn trong vài trăm chữ
để dễ thực hành, cuối cùng mấy trăm chữ nầy dồn lại còn một dòng: gate
gate paragate parasaṅgate bodhi svāha.
Nói tóm lại, Ba-la-mật là đáo bỉ ngạn
hay chí cực. Một từ Phạn với hai từ Hán dịch khác nhau, đây là do nhận
thức khác nhau về ngữ pháp cấu tạo từ. Chúng ta không đề cập vấn đề ngữ
pháp Phạn ở đây.
Pāramitā, theo nghĩa chí cực, là sự thực
hành đạt đến mức tối thượng, tuyệt đối. Người tu tập cần phải thành tựu
viên mãn sáu đức tính tuyệt đối, bắt đầu với bố thí như là sự thể hiện
thực tiễn của từ bi; trên cơ sở đó tu tập và phát triển lần lượt cho đến
sau cùng là trí tuệ. Bi và Trí song hành với nhau để tiến đến giải
thoát. Vì thế văn học đồ sộ của Bát-nhã được đúc kết lại, vừa nghĩa vừa
văn, thích hợp cho một hạng căn cơ nhất định để hiểu và hành; đó là kinh
Kim Cang.
Tiếng Phạn vajra, phổ thông dịch là kim
cang, đó chỉ mới nhấn mạnh đến tính chất cứng rắn nhưng chưa nói hết uy
lực của nó như sấm sét. Vajra cũng được dịch là kim cang xử: chày kim
cang. Trong huyền thoại Ấn Độ, kim cang xử là vũ khí của Indra tức là
Thiên Đế Thích.
Khởi thủy, tổ tiên người Ấn được nói là
người A-lị-nhã cư trú trong vùng biển Caspina, phía Bắc Iraq ngày nay.
Theo dòng lịch sử, họ lần hồi tràn xuống phía Nam, ngang qua Iraq; một
bộ phận tiến về phía Tây; bộ phận khác tiến về phía Đông, cuối cùng định
cư trong lưu vực Ngũ Hà, Ấn Độ. Hệ thống các thần linh và vũ trụ luận
cũng biến thiên theo bước chân của người A-lị-nhã. Với sự định cư và sự
phát triển của nông nghiệp, Thần Indra trong số Vạn Thần cổ đại dần
chiếm vai trò quan trọng, trở thành chúa tể của chư thiên. Cái chày kim
cang hay kim cang xử trong tay là vũ khí lợi hại để diệt trừ ma quỷ, bảo
vệ hạ giới. Đến thời đức Phật, Thần Indra bị thay thế bởi Thần Brahmā,
khi câu hỏi về nguồn gốc thế giới được nêu lên. Tuy nhiên, trong kinh
Phật, Thần Indra vẫn giữ vai trò quan trọng trong sự quản lãnh các thiên
thần, bảo vệ hạ giới, và ông được gọi là Thiên Đế Thích: vua của chư
thiên, có họ là Thích-ca; nói theo tiếng Phạn: śakro devānām indraḥ,
cũng thường phiên âm là Thích Đề-hoàn Nhân. Khi Phật xuất hiện, ông cùng
chư thiên thuộc hạ trở thành các vị hộ pháp.
Từ vajra mang ý nghĩa là lưỡi tầm sét,
hay kim cang xử, xuất hiện nhiều đoạn trong kinh văn nguyên thủy như các
A-hàm, Nikāya. Trongđó, vajra là vũ khí bảo vệ chân lý được cụ thể hóa
qua Thần Vajrapāṇi, Kim Cang Thủ. Kim cang được dùng để ví dụ cho loại
Định kiên cố, gọi là Kim Cang Dụ Định, có uy lực diệt trừ ngã chấp và vi
tế vô minh để chứng đắc quả A-la-hán, hay Chánh Đẳng Giác. Kim Cang Dụ
Định nầy cũng chính là Kim Cang Bát-nhã.
Kinh nói, Bồ-tát hành đạo, để đạt đến
cứu cánh, cần phải loại trừ ý niệm về tự ngã. Nhưng tự ngã ấy bị bọc
trong lớp vỏ vô minh, trừ phi có định lực kim cang và trí tuệ như kim
cang mới loại trừ được nó.
Tôi là ai? Ta là cái gì? Ta tồn tại hay
không tồn tại? Câu hỏi ấy đã là sự thách thức các hệ thống tư duy triết
học và tôn giáo Ấn Độ. Không có câu trả lời thỏa đáng, hóa ra đời sống
này chỉ là một trường túy sinh mộng tử: sống như người say rượu, không
biết sống để làm gì; và chết như người đang chiêm bao, không biết tại
sao chết, từ đâu đến và đi về đâu.
Trong các kinh điển nguyên thủy, đức
Phật không đưa ra một câu trả lời xác định. Thế nhưng, điều được tin
tưởng là tất cả giáo pháp của Phật đều hướng đến diệt trừ tự ngã. Tôi
đang tồn tại, đó là một hiện thực, đồng thời cũng là một ảo ảnh. Đau khổ
là sự thực. Cái tôi đang đau khổ ấy lại là ảo ảnh. Cái ta ảo ảnh được
bọc trong vỏ trứng vô minh, nó được định hình bằng vọng tưởng thành thân
thể ta, linh hồn ta, sở hữu của ta, tài sản của ta, cho đến núi sông
này là của ta, tài sản này là của ta; ta là tài sản này; sông núi này là
của ta, ta là sông núi này. Cho nên, khi tán gia bại sản, khi sông núi
sụp đổ, cái ta vọng tưởng cũng sụp đổ, cho nên có kẻ trầm mình xuống
sông, hoặc treo cổ trên cành. Vì thế, khi nghe nói cái ta này là ảo ảnh,
là không thực; người nghe có thể kinh hoàng, như nghe sét đánh ngang
tai. Tiếng sét đó là từ Kim Cang bát-nhã. Duy có điều, mọi người đều mù,
chỉ thấy bóng tối; mọi người đều điếc, chỉ nghe tiếng vo ve. Làm sao có
thể thấy cái ta chỉ là ảo ảnh? Làm sao nghe được tiếng sấm từ kinh Kim
Cang?
Với những ai có mắt để thấy, có tai để
nghe, kinh Kim Cang sẽ chỉ đường để đối diện với ảo ảnh của cái tôi, và
chỉ cách vận dụng kim cang xử đập vỡ vỏ trứng vô minh bao bọc tự ngã.
Tập san Pháp Luân số 58
0 comments