TIỂU SỬ
CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN MINH
(1922-1978)
Hòa thượng Thích Thiện Minh, thế danh Đỗ
Xuân Hàng, pháp danh Thiện Minh, pháp hiệu Thích Trí Nghiễm. Sinh ngày
21 tháng 4 năm 1922(1) – Nhâm Tuất – tại làng Bích Khê, huyện Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị. Ngài xuất gia năm 12 tuổi, đệ tử của Ðại Lão Hòa
Thượng Thích Giác Nhiên (Thuyền Tôn), Ðệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Gia đình Ngài thuộc tầng lớp thức giả,
thân phụ là ông Đỗ Xuân Quang, có làm việc làng, được phong Cửu Phẩm Văn
Giai. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Nhơn. Ngài là người con thứ năm trong
tám anh chị em(2).
(2) Theo gia phả Chi 5, Phái II, Họ Đỗ Khắc, làng Bích Khê, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, 8 anh em là: Xuân Tiềm, Thị Tiến, Xuân Khôi (chết năm 1917), Thị Diệu, Xuân Hàng (1922-1978), Xuân Tú, Xuân Uyển, Thị Danh. (Nguồn: http://gdpthaingoai.org).
Năm Tân Mùi (1931), khi mới 10 tuổi,
Ngài được song thân cho phép xuất gia tu học. Khi ấy phong trào Chấn
Hưng Phật Giáo đang được phát động rầm rộ tại Trung Kỳ và Hội An Nam
Phật Học được thành lập tại Huế năm 1932. Do đó, Ngài thừa hưởng được
những thuận duyên để vun bồi cho sự tu học ngay từ bước đầu.
Năm Giáp Tuất (1934), Hòa Thượng Giác
Tiên cùng đệ tử thân tín của Hòa Thượng là ngài Mật Khế đứng ra tổ chức,
thành lập trường An Nam Phật Học tại chùa Trúc Lâm, thu nhận chỉ 50 Học
Tăng được tuyển chọn rất kỹ từ nhiều nơi, trong đó có Ngài.(2)
(2) Đoạn này có tài liệu ghi: Năm 1936, Ngài bắt đầu theo học lớp Sơ Ðẳng Phật Học tại chùa Tuy Ba, cùng lớp với Thầy Võ Tường (tức Thích Thiện Siêu), Nguyễn Bình (tức Thích Trí Tịnh), Phạm Quang (tức Thích Trí Quang), Trần Trọng Thuyên (tức Thích Trí Thuyền). Ðến năm 1943, tốt nghiệp Trung Ðẳng Phật Học, nhưng chưa thọ đại giới đàn Bảo Quốc để theo đuổi chương trình Ðại Học Phật Giáo (Nguồn: Thư Viện Lam).
Vốn có tư chất thông minh lại tinh tấn
tu học, suốt thời gian theo học tại trường An Nam Phật Học, từ bậc Tiểu
học, lên Cao đẳng và Đại học Phật Giáo, Ngài đều gặt hái được kết quả
tốt đẹp. Nơi đây, tài hùng biện thu hút người nghe của Ngài được bộc lộ
mỗi khi Ngài đăng đàn diễn thuyết nên Ngài được chư tôn đức Giám Quản
luôn khen ngợi.
Năm Quý Mùi (1943), Ngài tốt nghiệp Đại
học Phật Giáo, chuẩn bị nhận lãnh trọng trách hoằng pháp lợi sanh thì
tình hình trong nước có biến động dồn dập. Đảo chính Nhật (9.3.1945) rồi
Cách Mạng Tháng Tám; Nam Bộ Kháng Chiến (23.9.1945)… Tất cả các hoạt
động của Phật Giáo cũng chịu nhiều ảnh hưởng phải ngưng hoạt động. Không
ít trí thức, Tăng sĩ và Phật Tử đã lao vào cuộc kháng chiến chống thực
dân cứu nước của toàn dân. Các Học Tăng tốt nghiệp xuất sắc cùng khóa
với Ngài có các ngài Trí Quang, Trí Thuyên… cũng không ngần ngại dấn
thân vào các tổ chức cứu nước. Ngài hăng hái phụ trách Ủy Ban Phật Giáo
Cứu Quốc tại tỉnh Quảng Trị. Nhờ tri kiến uyên thâm và tài hùng biện vô
ngại, Ngài đã vận động được sự ủng hộ từ nhiều phía đóng góp nhân tài
vật lực cho cuộc kháng chiến.
Năm Bính Tuất (1946) đến năm Đinh Hợi
(1947), nhiều tổ chức kháng chiến tại Huế tan vỡ, quân viễn chinh Pháp
tràn ra Quảng Trị, Quảng Bình, gây nhiều tang tóc bi thương. Ngài bị
Pháp bắt giam một thời gian. Sau đó vội vàng về Huế, Ngài cùng với nhiều
vị khác khôi phục lại các hoạt động Phật Giáo.
Năm Đinh Hợi (1947), sau khi trợ duyên
cùng ngài Trí Thủ khai giảng Phật Học Đường Trung Việt tại chùa Báo Quốc
(Huế), Ngài cũng kịp lúc góp sức cùng các ngài Mật Hiển, Mật Nguyện vận
động thành lập Sơn Môn Tăng Già Trung Việt.
Năm Mậu Tý (1948), sau khi thọ Sa Di
giới, Ngài lấy Pháp danh là Thích Trí Nghiễm và đến năm Kỷ Sửu (1949),
Ngài được phân công đi vào nhận công tác Phật sự tại vùng Cao Nguyên và
phía Nam Trung Việt, khôi phục và thành lập lại các Tỉnh hội, làm Chánh
Hội Trưởng Hội Phật Học Ðà Lạt và là giảng sư của Hội tại cao nguyên Lâm
Viên. Suốt 4 năm tại đây, Ngài đã ra công xây dựng những Chi Hội; xây
dựng được nhiều cơ sở vững chắc cho Hội An Nam Phật Học tại các tỉnh Lâm
Viên, Đồng Nai Thượng, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận; lập nhiều đơn
vị Gia Ðình Phật Tử, xuất bản tờ Hướng Thiện, rồi tờ Liên Hoa và Sen
Hồng.
Năm Tân Mão (1951), Giáo Hội Tăng Già
Trung Việt được thành lập tại Huế. Đây là nơi gặp gỡ thường xuyên của
các vị lãnh đạo để bàn bạc những vấn đề thiết yếu cho Phật Giáo. Và chỉ
một năm sau, tại chùa Quán Sứ (Hà Nội), Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc được
thành lập. Tại Đại Hội quan trọng này, Ngài được bầu vào Chủ Tọa Đoàn
điều khiển các cuộc thảo luận.
Năm Nhâm Thìn (1952), Giáo Hội cử Ngài
về làm giảng sư những tỉnh miền Nam Trung Việt. Lúc đó, Ngài đổi Pháp
danh là Thích Thiện Minh. Cũng như ở vùng cao nguyên, tại đây, nhờ
phương pháp tổ chức, nhờ đức kiên nhẫn của Ngài, Phật Giáo tại miền thùy
dương đã vươn cao chưa từng thấy.
Ðến năm 1956, Thượng Tọa Thiện Minh cùng
các Cao Tăng ở Bắc về Trung Phần, nhất là có sự tiếp tay của cụ Chánh
Trí – Mai Thọ Truyền, đã đứng ra tổ chức Ðại Hội Tổng Hội Phật Giáo Việt
Nam kỳ II. Sau Ðại Hội, Thượng Tọa trở về công tác tại Nha Trang một
thời gian rồi lại trở về Huế, điều hành Tổng Hội Phật Giáo Trung Phần.
Trong thời gian làm Phật sự tại miền Nam
Trung Việt và Cao Nguyên. Ngài thường xuyên viết bài cộng tác với Tạp
Chí Viên Âm do Hòa Thượng Trí Quang làm chủ bút và tiếp tục làm chủ
nhiệm Tạp Chí Hướng Thiện xuất bản tại Đà Lạt năm 1950. Trong thời gian
tại Khánh Hòa, Ngài làm Trị Sự Trưởng Tỉnh Giáo Hội một thời gian dài,
đã đóng góp rất nhiều trong việc xây dựng các cơ sở Chi Hội tại các quận
và các Khuôn Hội tại thị xã Nha Trang. Đặc biệt, Khuôn Hội Linh Thứu
gồm đa số đồng bào di cư ở khu Xóm Mới đã được Ngài trực tiếp hướng dẫn,
dìu dắt trong những ngày đầu. Từ nơi này, Ngài cũng có công sức rất lớn
cho việc nuôi dưỡng và hình thành Phật Học Viện Hải Đức, Nha Trang (về
sau tức là Phật Học Viện Trung Phần).
Năm Kỷ Hợi (1959), tại Đại Hội của Tổng
Hội Phật Giáo Trung Phần được tổ chức tại Huế, Ngài được suy cử làm Trị
Sự Trưởng Tổng Hội cho đến năm 1962 thì Hòa Thượng Trí Quang lên thay để
Ngài lãnh trọng trách khác.
Năm Nhâm Dần (1962), chính sách kỳ thị
tôn giáo của nhà cầm quyền bắt đầu bịểu hiện những trấn áp mãnh liệt.
Bằng những hồ sơ chính xác, Thượng Tọa gởi lên chính quyền yêu cầu đưa
ra ánh sáng những vụ bắt bớ, thủ tiêu Phật Giáo Đồ.
Năm Quý Mão (1963), sau vụ triệt hạ cờ
Phật Giáo; vụ thảm sát tín đồ và đồng bào tại Ðài Phát Thanh Huế trong
dịp đại lễ Phật Ðản, tình hình Phật Giáo ngày càng trở nên sôi động và
phức tạp. Đây là thời điểm mà bất kỳ một Tăng sĩ hay Phật Tử nào có
nhiệt tâm, mến đạo đều ưu tư và chung lo góp phần mình trong công cuộc
chống kỳ thị tôn giáo của chính thể Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ngài đã
cùng Ban Trị Sự Tổng Hội, dưới sự lãnh đạo tối cao của Đại Lão Hòa
Thượng Thích Tịnh Khiết, phát động phong trào đấu tranh, đòi thực thi 5
nguyện vọng đã lập thành Tuyên Ngôn đề ngày 10.5.1963. Sau đó, Ngài cùng
Hòa Thượng Trí Quang cung thỉnh Hòa Thượng Hội Chủ vào Sài Gòn để
chuyển cuộc đấu tranh trực tiếp với chính thể Tổng Thống Ngô Đình Diệm,
và tại nơi này, Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo được thành lập, đòi
chính quyền đương thời hủy bỏ đạo dụ số 10, thỏa mãn 5 nguyện vọng chân
chính của Phật Giáo. Ngài là một trong năm thành viên ở ngôi vị cố vấn
chủ chốt của Ủy Ban Liên Phái.
Sau khi Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự
thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt, chính thể Tổng Thống
Ngô Đình Diệm hốt hoảng, yêu cầu Ủy Ban Liên Phái cử phái đoàn đến để
thương thuyết. Ngài được cử làm Trưởng Phái Đoàn trong lần thương thuyết
này. Trước sự việc còn đang gây nên nhiều làn sóng đấu tranh, phẫn uất,
Bà Trần Lệ Xuân lại còn mô tả hành động tự thiêu của ngài Quảng Đức với
những lời lẽ khiếm nhã, Ngài bình tĩnh, khôn ngoan đối chất với Ủy Ban
Liên Bộ, dùng khả năng hùng biện, lý lẽ vững chắc, Ngài đã thẳng thừng
lên án chính phủ, dồn họ vào thế phải ký bản Thông Cáo Chung, mặc dù bản
Thông Cáo Chung này chỉ là kế hoãn binh để chính quyền Tổng Thống Ngô
Đình Diệm chuẩn bị một kế hoạch thâm độc hơn, đó là kế hoạch “Nước Lũ”
và nó đã được thực hiện vào đêm 20 rạng sáng 21.8.1963. Rất nhiều chùa
chiền trên toàn quốc bị bao vây, đập phá và nhiều chư tôn Giáo Phẩm bị
bắt bớ, đánh đập, tù đày, trong đó có Đại Lão Hòa Thượng Hội Chủ Thích
Tịnh Khiết, Ngài cũng cùng chung số phận ngay trong đêm đáng nhớ ấy và
chỉ được thả sau ngày 1 tháng 11 năm 1963.
Ngày 1-11-1963, Tướng Dương Văn Minh
cùng các tướng lãnh quân đội nổi dậy lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm, lúc
bấy giờ mọi tai họa dành riêng cho một tôn giáo lớn của dân tộc mới
hoàn toàn chấm dứt.
Năm Giáp Tuất (1964), một ngày lễ Phật
Đản huy hoàng chưa từng có tại Việt Nam được thể hiện bằng lễ đài hùng
vĩ ngay tại Bến Bạch Đằng Sài Gòn. Và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất được thành lập. Trong tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất này, Thượng Tọa Thiện Minh được suy cử làm Phó Viện trưởng Viện Hóa
Đạo kiêm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên.
Với cương vị mới mẻ và quan trọng này,
Ngài đã vận động từ mọi nơi, xây dựng nên Trung Tâm Quảng Đức ở số 294
đường Công Lý , Sài Gòn. Đây là trụ sở của Tổng Vụ Thanh Niên và trụ sở
của các Vụ trực thuộc như Gia Đình Phật Tử, Thanh Niên Phật Tử, Sinh
Viên Phật Tử, Học Sinh Phật Tử, Hướng Đạo Phật Giáo, Thanh Niên Thiện
Chí Phật Tử… Nơi đây còn là Trung Tâm Văn Hóa – Xã Hội hoạt động rất sôi
nổi của Giáo Hội. Đồng thời còn là nơi xuất phát nhiều cuộc đấu tranh
đòi dân chủ trong nửa cuối thập niên 60. Cũng chính Thượng Tọa đã đứng
ra điều động tổ chức Ðại Hội Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử lịch sử tại
trường Gia Long, Sài Gòn năm 1964. Khi vừa hoàn thành xong công trình
(Trung Tâm Quảng Đức) to lớn này, Ngài được Giáo Hội ủy cử làm Trưởng
Đoàn Phật Giáo Việt Nam đi dự Hội Nghị Phật Giáo Thế Giới được tổ chức
tại Nhật Bản.
Những năm cuối thập niên 60, phong trào
đấu tranh đòi thực hiện Quốc Hội Lập Hiến, Dân Chủ Dân Sinh bùng nổ khắp
mọi nơi do chính quyền thời ấy trở lại chế độ “quân nhân trị”, bè
phái, đàn áp Phật Giáo và các tổ chức đối lập một lần nữa. Những nhà
lãnh đạo Phật Giáo trong số đó có Thượng Tọa Thiện Minh lại đứng ra bảo
vệ tự do tín ngưỡng và tự do dân chủ..
Ở miền Trung (Đà Nẵng) vào ngày 15 tháng
5 năm 1966 trước làn sóng đấu tranh của Phật Giáo, 2.000 lính dã chiến
đã bao vây chùa chiền. Cuộc đổ máu đã diễn ra bởi sự đàn áp của quân đội
từ Sài Gòn ra với các cánh quân địa phương. Hơn 600 Tăng Ni, Phật Tử
chết và trên 1.000 người khác bị thương. Trước tình hình đó, Hòa Thượng
Trí Quang hô hào tiến hành cuộc đấu tranh bất bạo động để hỗ trợ cho
cuộc đối đầu của Ngài Thiện Minh ở Sài Gòn.
Nhân danh Chủ Tịch các lực lượng đấu
tranh và Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên, ngày 28.5.1966, Ngài đã gặp
trực tiếp hai tướng Thiệu-Kỳ đưa ra những yêu sách đấu tranh. Riêng Ngài
sau một buổi báo cáo kết quả cùng Viện Hóa Đạo và các Phong Trào do
Ngài làm Chủ Tịch vào ngày 1 tháng 6 năm 1966, một mình đi bằng taxi về,
Thượng Tọa đã bị mưu sát ngay trước Trung Tâm Quảng Ðức. Ngài vừa đặt
chân xuống lề đường trước cổng Trung Tâm thì một quả lựu đạn nổ ngay chỗ
Ngài vừa bước ra. Rất may Ngài chỉ bị thương ở chân. Từ cuộc ám sát đó,
sức khỏe Ngài giảm sút thấy rõ. Mọi hoạt động của Ngài như mất dần kết
quả nguyên vẹn. Tuy nhiên, Ngài vẫn không kém quyết liệt trước mọi tình
huống, vẫn tiếp tục lãnh đạo Giáo Hội cùng chư tôn đức khác.
Ngày 17 tháng 3 năm 1969, Thượng Tọa bị
Tòa Án Quân Sự Mặt Trận kết án 15 năm tù khổ sai cấm cố. Khắp trong và
ngoài nước vô cùng công phẩn. Tại Sài Gòn, một “Ủy Ban Vận Động Đòi Hủy
Bỏ Bản Án Thích Thiện Minh” ra đời, trong đó có đủ thành phần tôn giáo;
nghị sĩ; dân biểu; chính trị gia; sinh viên, học sinh… Dưới áp lực quá
mạnh mẽ, chính quyền ra quyết định phóng thích Thượng Tọa ngày 1 tháng
11 năm 1969.
Năm 1970, Thượng Tọa lên đường tham dự
Hội Nghị Tôn Giáo Và Hòa Bình Thế Giới tại Tokyo, Nhật Bản. Tại đây,
Thượng Tọa đã đọc bản tham luận nổi tiếng nhan đề ”Quan điểm của Phật
Giáo về bất bạo động”.
Năm 1971, Ngài được cử làm Phó Viện
Trưởng Viện Hóa Đạo. Đây là giai đoạn Viện Hóa Đạo bị phân hóa trầm
trọng, Ngài đã góp phần ổn định, lèo lái vượt qua, ngay cả đó là những
năm ác liệt nhất của chiến tranh.
Năm 1972, khi Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
viên tịch, Ngài phải ra đảm đương chức vụ Quyền Viện Trưởng Viện Hóa
Đạo cho đến khi tổ chức được Đại Hội Phật Giáo kỳ IV, Hòa Thượng Thích
Trí Thủ nhận chức Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Ngài mới rút về làm Cố Vấn
cho Viện Hóa Đạo mà thôi.
Năm 1973, Thượng Tọa trong cương vị
Quyền Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo ra Thông bạch gởi toàn thể Tăng Ni, Phật
Tử toàn quốc phải nổ lực xây dựng, chung tay hàn gắn vết thương chiến
tranh khi hòa bình vãn hồi. Nhưng Hiệp Định Ngưng Bắn Và Tái Lập Hòa
Bình Tại Việt Nam ký kết tại Paris đã không được các bên tham chiến
nghiêm chỉnh thi hành.
Thời gian sau đó, vì sức khỏe, Ngài phải
hạn chế hoạt động, trao lại chức vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên –
dù chưa có người thay – do đó Viện Hóa Đạo đã đặc cách Quyền Tổng Vụ
Trưởng cho Đại Đức Thích Giác Đức cho đến năm 1975.
Sau đại hội kỳ VII của Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất vào năm 1976, Ngài được cung thỉnh làm Cố Vấn
Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo.
Ngày 9 tháng 6 năm 1977, Giáo Hội ra
Thông Ðiệp kêu gọi Bảo Vệ Nhân Quyền ở Việt Nam. Thông Ðiệp lưu hành vô
cùng khó khăn, ai bắt gặp có Thông Ðiệp, thì lập tức bị giam. Ngày 15
tháng 6 năm 1977, Thượng Tọa Thích Mãn Giác rời nước ra đi bằng đường
biển, mang theo Thông Ðiệp đó cùng nhiều tài liệu về đàn áp Phật Giáo.
Nhà đương cuộc cho rằng chính Thượng Tọa Thiện Minh đã tổ chức, xếp đặt
những biến cố trên nên ngày 28 tháng 3 năm 1978, Thượng Tọa bị trục xuất
khỏi Trung Tâm Quảng Ðức, không cho phép chùa chiền nào chấp chứa.
Ngày 13 tháng 4 năm 1978, sau nhiều
tháng lang thang, Thượng Tọa bị bắt giam tại Hàng Xanh, Sài Gòn. Người
ta bắt Thượng Tọa phải cởi áo tu sĩ nhưng Thượng Tọa đã khẳng khái trả
lời: ”Minh xuất gia từ năm 12 tuổi, đã quen mặc nâu sòng rồi, khó mặc
thứ khác”. Vì phản ứng và câu nói này, Thượng Tọa bị phạt 7 ngày đêm
không quần áo. Sức khỏe của Thượng Tọa suy giảm dần trong tù. Cuối cùng
Thượng Tọa bị áp giải về trại cải tạo Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải (nay trở
lại là tỉnh Bình Thuận). Không biết chế độ đối xử thế nào mà ngày 17
tháng 10 năm 1978 thì Thượng Tọa tắt thở. Giáo Hội nghe tin, cử một phái
đoàn ra Hàm Tân nhận diện một thi thể bị bọc kín, khuôn mặt tím bầm,
mắt sâu hóm, râu và tóc ra dài che phủ cả mặt. Giáo Hội xin đưa về mai
táng nhưng không được chấp thuận; xin tụng một thời kinh cầu siêu cũng
bị chối từ. Sự kiện Ngài bị giam giữ và lưu đày nơi vòng lao lý cho đến
nay vẫn còn là một nghi án chưa được làm minh bạch về cái chết của Ngài.
Hòa Thượng Thích Thiện Minh trụ thế được
56 năm với 36 năm hành đạo. Chùa Thuyền Tôn (Huế) đã lập tháp vọng thờ
Ngài với ngày kỷ niệm tưởng nhớ công ơn Thượng Tọa là ngày 15 tháng 9 âm
lịch hằng năm.
— oOo —
* Xuất xứ tài liệu: QUANG MAI sưu tập, tổng hợp & trình bày từ các nguồn tài liệu tham khảo:
* Chú thích:
- (1) Có tài liệu ghi Ngài sinh ngày 21.4.1921.
- Mới đây, trong dịp húy nhật lần thứ 35
ngày Cố Hòa Thượng thượng Thiện hạ Minh viên tịch tổ chức tại “Lam Linh
Đường” tịnh thất Huyền Không (Thị trấn Phú Mỹ – 2013), tôi có nghe được
thông tin là tại chùa Phước Quang, ấp Quảng Phú, thị trấn Phú Mỹ, huyện
Long Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu – khu vực Đại Tòng Lâm Phật Giáo tại
Bà Rịa Vũng Tàu – vừa tổ chức một buổi lễ cung nghinh di cốt Cố Hòa
Thượng Thích Thiện Minh để ký tự phụng thờ. Cũng theo nguồn tin này thì
Ngài là người “khai canh” làng Quảng Phú; khai sơn chùa Phước Quang; và
sáng lập GĐPT Khánh Quảng (hiện trực thuộc Ban Hướng Dẫn GĐPT Bà Rịa
Vũng Tàu).
Địa phương này tọa lạc tại khu vực Đại
Tòng Lâm như nói trên, và theo chúng tôi được biết – cũng như qua một số
tài liệu – thì “Đại Tùng Lâm Phật Giáo” trước đây (trước năm 1975)
thuộc tỉnh Phước Tuy, miền Đông Nam Phần; được nhị vị Cố HT Thiện Hoa,
Thiện Hòa đến khai sơn năm 1958. Sau đó, vào năm 1964, Hòa Thượng Thiện
Hòa với sứ mạng Trị Sự Trưởng Tăng Già Nam Việt trong Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất lập hồ sơ xin khai khẩn 100 mẫu đất hoang hóa
tại xã Phú Mỹ, quận Long Lễ, tỉnh Phước Tuy (nay là thị trấn Phú Mỹ,
huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu), với dự án xây dựng thành một
Tòng Lâm danh tiếng của Phật Giáo Việt Nam. Hồ sơ được chính quyền
đương thời duyệt thuận, cấp “sổ bộ” đất và nhiều đơn vị Quân Nhân Phật
Tử đã về đây trợ lực khai khẩn khu đất “Đại Tòng Lâm Phật Giáo”.
Do nguồn tin về việc khai sơn và về linh
cốt của Cố Hòa Thượng Thiện Minh chúng tôi chưa có thời gian xác thực
nên xin sẽ thông tin sau và bổ sung vào tiểu sử Ngài nếu thông tin hoàn
toàn chính xác.
QUANG MAI
0 comments